Chủ đề: 138,339, Bài gửi: 256,500, Thành viên: 99,768
Online: 2

Trở lại   Chợ thông tin In Ấn Việt Nam > Kiến thức căn bản > Chế bản điện từ - CTP - CTF

Trả lời
 
Công cụ bài viết Kiểu hiển thị
  #1  
Cũ 04-07-2012, 09:25 AM
takyco takyco đang online
Junior Member
 
Tham gia ngày: May 2012
Bài gửi: 9
Mặc định Giấy và những bước thăng trầm

Hệ thống quảng cáo SangNhuong.com

Ngày nay giấy đối với ta quá bình thường. Ta vò nó trong tay rồi ném đi không chút thương tiếc bởi ta có biết đâu sau ba ngàn năm từ ngày có những nét những hình đầu tiên được viết nơi hang động, đất sét... cho tới cách đây hai ngàn năm mới chế biến được giấy thô sơ và qua biết bao quá trình, mới trở thành hoàn hảo như ngày hôm nay

1 TRƯỚC KHI CÓ GIẤY:




1.1 Cây cói giấy



Các hình vẽ trong hang động là những văn kiện lâu đời nhất do con người vẽ bằng bột màu. Người Sumer, có nền văn hóa cao lâu đời nhất được biết đến, viết trên những tấm bia bằng đất sét (văn tự hình nêm, bắt đầu từ khoảng 3300 năm trước Công nguyên). Các vật liệu hữu cơ dùng để viết lên sau đó ít bền hơn. Nếu không có những tấm bia bằng đất sét của người Sumer chúng ta biết rất ít về thời gian này. Da, giấy da (parchment), gỗ, vỏ cây, giấy cói (giấy chỉ thảo) - có ở Ai Cập khoảng 3000 năm trước Công nguyên - và giấy đều có thể cháy và bị phân hủy sinh học.



Giấy cói (giấy chỉ thảo) làm bằng một loại lau sậy (cây cói giấy hay cây chỉ thảo – cyperus papyrus) được buộc vào với nhau và đặt chéo lên nhau trước khi được ép lại. Người ta viết trên đó bằng mực đỏ hay đen. Mực đen bao gồm bồ hóng và một dung dịch từ nhựa của cây keo (gummi arabicum). Mực đỏ được làm từ hoàng thổ. Người ta dùng một cây cọ làm từ cây sậy (cây lau) để viết.



1.2 Giấy cói cổ từ Ai Cập



Mặc dù cây cói giấy (cây chỉ thảo) cũng có ở Hy Lạp nhưng không được lan truyền ra ngoài nước. Trong thế kỷ thứ 3 người Hy Lạp thay thế cọ viết bằng lông chim. Từ giấy trong các thứ tiếng ở châu Âu (papier, paper...) dẫn từ tên của cây cói giấy - papyrus.





Giấy và cây papyrus





Ngoài ra người ta còn viết trên giấy da (parchment) là loại da mỏng chưa được thuộc.



Giấy da


Ở Roma người ta sử dụng cả giấy cói (giấy chỉ thảo) lẫn bảng làm bằng sáp, văn thơ được khía lên bằng một cây nhọn. Dùng một tấm cạo có thể làm phẳng sáp lại và lại có thể viết lên trên tấm bảng này. Ở Ấn Độ người ta dùng lá cây cọ. Ở Trung Quốc, trước khi phát minh ra giấy, xương, vỏ sò ốc, ngà voi, sau đó là đồng thau, sắt, vàng, bạc, thiếc, thạch anh, đá, đất sét, tre và tơ lụa đều được dùng đến.



1.3 Trong thế kỷ thứ 5 (triều nhà Hậu Hán) Phạm Diệp đã tường thuật lại:



Từ xưa người ta đã dùng thanh tre để viết, được cột lại với nhau. Cũng có một loại giấy làm từ phế phẩm của tơ lụa. Nhưng tơ lụa quá đắt còn các thanh tre thì quá nặng nên không sử dụng thích hợp. Vì thế Thái Luân nghĩ ra kế làm giấy từ các vỏ thân cây, sợi thân cây, từ cây gai dầu cũng như từ vải và lưới đánh cá cũ. Năm 105 sau Công nguyên ông tâu lên Hoàng thượng và được ngài khen thưởng cho tài năng của ông. Từ đấy giấy trở nên thông dụng và trong cả vương quốc mọi người đều gọi đó là giấy của quý nhân Thái.



Các khám phá về khảo cổ ở Trung Hoa cộng với phép tính tuổi bằng carbon phóng xạ chứng minh rằng giấy đã hiện diện từ hai thế kỷ trước Thái Luân, nhưng người ta vẫn cho Thái Luân là người phát minh ra giấy thực thụ như ngày nay.



2. PHÁT MINH RA GIẤY:



Như vậy giấy làm từ tơ lụa đã được biết đến trước khi Thái Luân phát minh ra giấy trong thế kỷ thứ 1, khoảng năm 105, chủ yếu làm từ sợi bên trong của vỏ cây dâu (dâu tằm). Trước đó cũng đã có giấy làm từ cây gai dầu (Cannabis), còn được gọi là cây cần sa, như năm mẩu giấy được tìm thấy trong những năm từ 1973 đến 1978 đã chứng minh. Các ghi định thời gian được so sánh lại cho thấy các mẩu giấy này phải có nguồn gốc từ khoảng năm 140 đến 87 trước Công nguyên.



Một loại nguyên liệu giấy khác là cây thụy hương (Daphne). Cây gai dầu và thụy hương có sợi dài hơn những loại gỗ được sử dụng ngày nay và qua đó mà có độ bền cao. Hai tính chất này cho phép giấy được sử dụng vào những mục đích khác ngoài mục đích để viết. Các đồ vật để trang trí và quần áo cũng được sản xuất theo truyền thống từ giấy ở Đông Á.



Nguyên liệu làm giấy được cắt vụn ra và giã nhỏ trong nước thành bột lỏng. Các sợi được phân tán mỏng trong nước. Đầu tiên giấy được múc ra bằng một cái rây nổi trên mặt nước. Lưới ở dưới đáy rây được gắn chặt vào khung. Mỗi tờ giấy được múc ra phải được làm khô trong rây và chỉ được đem ra sau khi khô. Vì thế mà cần đến rất nhiều rây. Kỹ thuật này lan truyền đến người Thái vào khoảng năm 300.



Vào khoảng năm 600 kỹ thuật múc giấy cải tiến dùng loại rây múc lan truyền đến Triều Tiên và sau đó đến Nhật. Ở loại rây múc này khung rây có thể gỡ ra khỏi rây. Tờ giấy vừa được múc có thể được lấy ra khi còn ẩm và đem đi phơi khô. Kỹ thuật này còn được sử dụng cho đến ngày nay ở các loại giấy múc bằng tay và nói chung nguyên tắc sản xuất giấy (cắt vụn, giã nhỏ trong nước, múc và hong khô) vẫn không thay đổi cho đến ngày nay.



Ở Nhật người ta cải tiến kỹ thuật này và pha vào bột của sợi giấy nhựa từ rễ của cây bụp mì (Abelmoschus manihot). Các sợi được phân tán đều hơn và không còn bị vón cục nữa. Loại giấy này được gọi là giấy Nhật.





Cây bụp mì


Ở châu Âu sau này giấy được ép từng chồng, giữa hai tờ giấy có lót một tấm vải hay nỉ (phớt). Qua đó mà quá trình làm khô giấy được tăng nhanh hơn và giấy được nén chặt lại.



3. SỰ LAN RỘNG VÀ PHỔ BIẾN CỦA GIẤY TRONG ĐỜI SỐNG:



Ngay từ thế kỷ thứ 2 đã có khăn tay giấy ở Trung Quốc. Tờ Báo Bắc Kinh phát hành số đầu tiên vào năm 748 (ngưng phát hành vào năm 1936). Trong thế kỷ thứ 6 người ta đã sản xuất giấy vệ sinh từ giấy rơm rạ rẽ tiền nhất. Xưởng trong cung đã sản xuất cho triều đình 720.000 tấm giấy vệ sinh và thêm vào đó là 15.000 tấm giấy vệ sịnh tẩm hương thơm, mềm và có màu vàng nhạt cho hoàng gia.





Một xưởng làm giấy ở trung Quốc




3.1 Tiền giấy ở trung Quốc và Việt Nam:



Ở Trung Quốc vua Đường Cao Tông (650–683) phát hành tiền giấy lần đầu tiên, được công nhận là tiền tệ trong thế kỷ thứ 10. Vào khoảng năm 1300 tiền giấy cũng được ban hành ở Nhật, Ba Tư và Ấn Độ.



Ở Việt Nam, trong quyển Khâm định Việt sử thông giám cương mục có ghi lại:



Bính Tý, năm thứ 9 (1396). (Minh, năm Hồng Vũ thứ 29)



Tháng 4, mùa hạ. Bắt đầu ban hành tiền "thông bảo hội sao".



Thiếu bảo Vương Nhữ Chu đề nghị đổi lại chế độ. Quý Ly nghe theo, mới định chế độ tiền giấy như sau: loại 10 đồng vẽ rau rong; loại 30 đồng vẽ thủy ba; loại một tiền vẽ đám mây, loại hai tiền vẽ con rùa; loại ba tiền vẽ con lân; loại 5 tiền vẽ con phượng; loại một quan vẽ con rồng. Người nào làm giả phải tội tử hình, tịch thu điền sản sung công. Khi tiền giấy đã in xong, hạ lệnh cho dân được đem tiền thực đổi lấy tiền giấy: cứ một quan tiền thực chất đổi lấy tiền giấy một quan hai tiền. Cấm chỉ dân gian không được dùng tiền đồng, bao nhiêu tiền đồng đều nộp vào quan, nếu như người nào tàng trữ riêng hoặc tiêu dùng riêng cũng phải tội như người làm giả tiền giấy.



Năm 1298 Marco Polo đã tường thuật lại việc lan truyền rộng rãi của tiền giấy. Trong thời gian này đã có nạn lạm phát làm giảm giá trị xuống chỉ còn vào khoảng 1% của giá trị ban đầu. Để chống nạn làm tiền giả có thời gian tiền giấy được làm từ giấy đặc biệt có các chất phụ gia như sợi tơ, thuốc trừ sâu và chất màu.



3.2 Giấy trong thế giới Ả Rập:



Vào năm 750 hay 751 kỹ thuật sản xuất giấy lan truyền đến Samarkand, có lẽ qua các tù binh người Trung Quốc trong một cuộc tranh chấp biên giới, và từ đấy kỹ thuật này lan rộng khắp thế giới Ả Rập. Nhờ vào các khám phá mới, người ta cho rằng ở Samarkand giấy đã được biết đến và sản xuất trước đó 100 năm. Cây lanh (Linum usitatissinum) và cây gai dầu (Cannabis L.) cũng như nước đều có đầy đủ, chẳng bao lâu người Ả Rập đã xây dựng lên một công nghiệp giấy phát đạt. Giấy lan truyền nhanh chóng đến Maroc. Một cối xay giấy đã được xây ở Bagdad vào năm 795, năm 870 quyển sách làm bằng giấy đầu tiên được phát hành ở đây. Trong văn phòng của quốc vương Harun-al-Raschid người ta đã dùng giấy để viết. Sau đó là các xưởng sản xuất ở Damascus, Cairo, ở các tỉnh Bắc Phi cho đến cả phía tây.



Người Ả Rập tiếp tục cải tiến kỹ thuật sản xuất. Nhờ vào các rây múc làm bằng dây kim loại mà người ta đã có thể tạo được hình chìm trên giấy (watermark). Giấy được phủ keo tốt hơn nhờ sử dụng tinh bột. (Phủ keo là tráng một lớp mỏng keo trên mặt giấy hay pha keo vào bột giấy lỏng trước khi múc giấy để giấy láng hơn và ít hút nước hơn, mực viết lem ít hơn.) Các đơn vị đo lường diện tích được tiêu chuẩn hóa. 500 tờ giấy là một ram giấy (thếp giấy) – rizmar. Từ này là nguồn gốc cho khái niệm về đơn vị giấy vẫn còn thông dụng cho đến ngày nay trong ngành giấy: một ram giấy (tiếng Anh: ream, tiếng Đức: Ries, tiếng Pháp: rame, tiếng Tây Ban Nha: resma...).



3.3 Giấy ở châu Âu:



Qua các giao lưu văn hóa giữa phương Tây Thiên chúa giáo và phương Đông Ả Rập cũng như qua nước Tây Ban Nha thời kỳ Hồi giáo giấy được mang đến châu Âu từ thế kỷ thứ 12. Theo như Al-Idrisi tường thuật lại sau các chuyến du lịch, ngay từ giữa thế kỷ thứ 12 ở San Felipe (Xativa) gần Valencia đã có một nền công nghiệp giấy phát đạt, xuất khẩu các loại giấy cao cấp sang cả các nước láng giềng.



Sau khi người Ả Rập bị đánh đuổi khỏi Tây Ban Nha, vùng quanh Valencia vẫn còn là nơi có tầm quan trọng trong công nghiệp giấy vì ở đây người ta trồng được cây lanh (Linum), một nguyên liệu dùng làm giấy rất tốt.



Cùng với việc sử dụng văn bản ngày càng phổ biến trong các lãnh vực khác của văn hóa (kinh tế, luật, hành chánh,...), từ giữa thế kỷ thứ 14 giấy bắt đầu cuộc tranh đua với giấy da (parchment). Kỹ thuật in sách ra đời từ giữa thế kỷ thứ 15 đã đánh dấu cho vai trò của giấy da trở thành vật liệu để viết xa xỉ. Mặc dù rẻ tiền, mãi cho đến thế kỷ thứ 17 giấy, trong vai trò là vật liệu để viết, mới đẩy lùi được giấy da tương đối đắt tiền hơn.



4. BƯỚC THĂNG TRẦM CỦA GIẤY:



Hành trình của giấy qua các châu lục









Năm 150 trước công nguyên: Người Trung Quốc đã biết dùng sợi cây gai dầu, vỏ cây, vãi mục nát (lưới đánh cá) để viết . Đây là thời kì trước khi giấy được phát minh.



Năm 149 trước công nguyên: Từ điển Trung Hoa đầu tiên gồm 10000 từ do Hu Shin soạn thảo. Đây là cột mốc đánh dấu sự phát triển văn hóa ngôn ngữ và việc sao chép dữ liệu.



Năm 105: Phương pháp làm giấy đầu tiên ra đời bởi Ts’ai Lun, hoạn quan người Trung Quốc . Phương pháp này được phổ biến ở Tun Hoang vào năm 150, ở Loulan năm 200, ở Niya khoảng năm 250-300.



Năm 500: Người Maya đã biết dùng vỏ cây để viết (sau gọi là almatl)



Khoảng năm 650 người Árập xâm nhập Sicile, rồi tràn qua Maroc. Hai thành phố này sau đó biến thành hai trung tâm văn hóa của Árập truyền bá truyền thống và tín ngưỡng của mình. Trong những thế kỷ tiếp theo, lãnh thổ Árập lớn dần, thêm các nước tân tiến như Algérie, Tunisie và Lybie cùng với những lãnh thổ to lớn của Espagne, Portugal và Italie.



Năm 700: Hồ dán-Cải tiến trong phương pháp làm giấy làm thay đổi đáng kể tính chất giấy : giấy dai và ít thấm mực hơn



Năm 748: Tờ “báo” đầu tiên xuất hiện ở Peking



Người theo đạo Islam dùng giấy rất sớm, từ Ấn độ tới Tây Ban Nha, trong lúc người theo đạo Thiên chúa vẫn còn dùng giấy da



Ảnh hưởng của Arabe tiếp tục trải ra từ Phi Châu tới Méditerranée:

Hành trình của kỹ thuật làm giấy từ năm 751



Năm 751, dân Arập sống trong thành phố Samarkan, trong Kasakhstan -khoảng 800 km từ biên giới Trung quốc- bị quân đội Trung quốc tấn công. Cuộc tấn công bị quân đội Arập không những đẩy lùi mà họ còn bị đuổi theo. Quân Árập bắt tù binh Trung quốc biết kỹ thuật làm giấy. Để đổi lấy tự do, người Trung quốc đã truyền lại nghề làm giấy. Người Á rập biết làm giấy từ đó và cách làm giấy được nhanh chóng phổ biến trong dân Arập.



Vào thế kỷ thứ X, người Árập dùng bông vải để chế giấy để có loại giấy mỏng tốt.



Khoảng năm 1100, Ý và Espagne đuổi dân Arập đi nhưng ngành sản xuất giấy được giữ vững. Tại Ý, tài liệu cổ xưa nhất được viết trên giấy xưa nhất đã được dâng lên vua Roger của Sicile, ghi năm 1102.



Vào năm 1035,nhà du lịch ba tư Nasiri Khosrau, trong một lần đến Ai cập, đã vô cùng kinh ngạc khi thấy “ người bán trái cây, rau quả, gia vị, vật dụng …gói tất cả hững thứ mà họ bán được bằng giấy “ . Có lẽ đây là bằng chứng sớm nhất của ngành bao bì.



Năm 1147, theo truyền thuyết, trong cuộc thập tự chinh thứ 2 Jean Montgofier bị bắt bởi Saracens và đưa tới làm khổ sai trong xưởng giấy Damascus. Một thời gian sau, anh được thả trở về Pháp. Tại đây, anh thành lập xưởng giấy ở Vidalon, Pháp.



Trong những năm 1150 và về sau, giấy đã bị ngăn cấm bởi thế giới của người theo đạo Thiên chúa giáo vì cho rằng nó là biểu thị của văn hóa Hồi giáo.



Đầu những năm 1200 Thiên chúa giáo khống chế người Tây Ban Nha theo đạo Islam, nhờ vậy mà họ học cách làm giấy tư những người theo đạo Islam. Năm 1250, người Ý bắt đầu học cách làm giấy và bán khắp Âu châu.



Vào năm 1221, hoàng đế Frederck đệ II ban một sắc lệnh mà nội dung trong đó có việc phủ nhận toàn bộ giá trị của các bản văn kiện viết tay trên giấy. (Chỉ duy những văn kiện viết trên giấy da là có hiệu lực.) Đây là đỉnh cao của sự kì thị giấy của người phương tây thời bấy giờ.



Năm 1282, hoa văn in chìm được sử dụng lần đầu tiên ở Châu Âu, hình cây thánh giá và vòng tròn (ý)



Năm 1338 các giáo sĩ Pháp bắt đầu chế tạo giấy.



Năm 1411 tức là sau 15 thế kỷ từ khi Ts'ai Lun phát minh ra giấy, người Đức mới bắt đầu sản xuất giấy và nhất là từ năm 1450 ngành báo chí và máy in ra đời do Johannes Gutenberg thì vélin và parchemin bị quên hoàn toàn. Rẻ tiền hơn, đồng dạng, giấy trở nên cần thiết cho sự sản xuất lớn mà giấy da thú không thể có đủ điều kiện. Lúc này, sự kì thị giấy của người phương Tây đã có phần suy giảm.



Năm 1493, hình ảnh của xưởng làm giấy Ulman Stronger in trên hai trang của Nurnberg là hình ảnh đầu tiên của một xưởng l giấy đăng trên một quyển sách Châu Âu. Mở ra kỉ nguyên mới trong cách nhìn nhận về giấy của người phương tây đối với giấy.





Nhà máy giấy




Năm 1550 giấy có vân được sử dụng, phát minh của người ba tư.



Năm 1568 những hình ảnh đầu tiên của Jost Amman miêu tả quy trình làm giấy xuất hiện ở Châu Âu .



1575-1580 Theo chân phong trào giải phóng dân tộc của các nước châu Mỹ La Tinh, xưởng in giấy đầu tiên được thành lập ở Cullhauacan, Mexico với phương châm “ xưởng giấy của những người lao động “



Năm 1690, giấy được sản xuất tại Philadelphia bởi William Rittenhouse . Là người đã đưa ra những chuẩn mực trong việc xây dựng xưởng sản xuất giấy ở vùng thuộc địa châu Mỹ . Đó là :



Xướng sản xuất giấy phải được đặt tại những nơi thuận lợi trong việc cung cấp và vận chuyển nguồn nguyên liệu làm giấy .



Xướng sản xuất giấy phải được đặt tại những khu vực có nguồn nước sạch để đáp ứng nhu cầu về việc giặt giũ sợi và vận hành thiết bị .



Năm 1755, giấy wove ( giấy có sóng) được làm



Năm 1760, hình chìm được sử dụng trên giấy wove



1776-1820, Nathan Seller, sống tại Pennsylvania, học làm khuôn sản xuất giấy. Sau năm 1776, anh cung cấp khuôn cho hàng trăm nhà sản xuất giấy Châu Mỹ. Sau đó Sellers tham gia vào quân đội Mỹ vào mùa thu năm 1776 và chuyện chưa từng có đã xảy ra, tại cuộc họp của các nước lục địa đấu tranh giành độc lập, các thành viên cấp cao đã đưa ra nghị quyết hủy bỏ tư cách binh sĩ của Sellers và trả anh về nhà để tiếp tục chế tạo khuôn đặc biệt cho các loại giấy gói và viết sử dụng trong suốt thời kì chiến tranh cách mạng.



Những năm 1790, vào thời điểm này các nhà sản xuất giấy Châu Mỹ đã biết cách phân biệt và lựa chọn các loại vật liệu thích hợp cho việc sản xuất như: bột vải, vỏ cây, bã mía, rơm, bột bắp . Bột gỗ trở thành lựa chọn hàng đầu của Mathias Koop, Anh và của các thiết bị xay gỗ.



Những năm 1860, đây là giai đoạn cải tiến đáng kể trong việc lựa chọn nguyên liệu làm giấy : sự lên ngôi của bột gỗ đã thay thế vị trí của bột vải.



Năm 1885, George Eastman sản xuất giấy film.



Năm 1925, Theo thống kê , một bản sao của cuốn kinh thánh có giá trị tương đương 2000$ vào thế kỉ 14 ,500$ vào năm 1455 , 100$ vào thế kỉ 17 , và 3$ vào năm 1925.



Năm 1977, Jules Heller thành lập trường ĐH về ngành giấy đầu tiên tại bang Arizona , Mỹ.





Và cho đến ngày nay, giấy đã không ngừng được cải tiến và thay đổi sao cho phù hợp với nhu cầu người tiêu dùng. Đi đến bất cứ đâu, ta cũng cảm nhận được sự hiện diện của giấy,từ những quyển sách, những tờ báo, những chiếc túi đựng cho đến những cuộn giấy vệ sinh,…Càng ngày, giấy càng đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống của con người.


View more latest threads same category:


Trả lời với trích dẫn


CHUYÊN MỤC ĐƯỢC TÀI TRỢ BỞI
Trả lời


Công cụ bài viết
Kiểu hiển thị

Quyền viết bài
You may not post new threads
You may not post replies
You may not post attachments
You may not edit your posts

vB code is Mở
Mặt cười đang Mở
[IMG] đang Mở
HTML đang Mở
Chuyển đến

SangNhuong.com


Múi giờ GMT +7. Hiện tại là 08:42 AM

SangNhuong.com xây dựng