Chủ đề: 138,311, Bài gửi: 256,466, Thành viên: 97,056
Online: 6

Trở lại   Chợ thông tin In Ấn Việt Nam > Kiến thức căn bản > Chế bản điện từ - CTP - CTF

Trả lời
 
Công cụ bài viết Kiểu hiển thị
  #1  
Cũ 04-07-2012, 08:54 AM
wanghy wanghy đang online
Junior Member
 
Tham gia ngày: May 2012
Bài gửi: 9
Mặc định Tìm hiểu về Font chữ

Hệ thống quảng cáo SangNhuong.com



Phần 1: Tìm hiểu về Font chữI.Phông là gì ?Phông là tập hợp hoàn chỉnh các chữ cái, các dấu câu, các con số, và các ký tự đặc biệt, theo một kiểu loại, định dạng (thường hoặc đậm nét), hình dáng (thẳng hoặc nghiêng) và kích cỡ phù hợp và có thể phân biệt khác nhau. Thường thuật ngữ “typeface” được dùng không đúng để chỉ về kiểu loại. Có ba loại phông chữ: phông Bitmap, phông PostScript và phông True Type. Mỗi loại lại có hai phiên bản: phông màn hình (screen font) và phông máy in (printer font).1.Phông BitmapĐược tạo ra bằng cách sử dụng ngôn ngữ trình bày của Quick Draw. Chúng được xây dựng từ các điểm nhỏ trên màn hình và được tận dụng độ phân giải 72 dpi của màn hình để thiết kế. Phông Bitmap luôn được đặt tên đại diện cho thành phố. Ví dụ: Geneva, New York, Monaco, Athent, Cairo… là tất cả những phông Bitmap. Đừng bao giờ sử dụng một phông mang tên một thành phố trừ khi đang sử dụng máy in Quick Draw. Máy in lasser và các thiết bị xuất khác như máy ghi phim chẳng hạn không thể đọc font Bitmap. 2.Phông PostScript (outline font)Được thiết kế bằng những công thức toán học viết trên ngôn ngữ Postscript, đúng hơn là bằng những điểm vuông nhỏ, mỗi công thức toán học tạo ra một ký tự bằng cách vẽ một hình bao thanh nhã và không bị méo, sau đó máy in sẽ lấp kín bên trong với những chấm có độ dày tuỳ theo độ phân giải tối đa của máy. Khác với các ảnh bitmap, các công thức toán tạo nên các cung tròn và các đường thẳng duyên dáng của kí tự hình bao. Đọc những công thức, mọi máy in Postscript có thể tạo ra những phông và thu phóng chúng đến một kích thước bất kỳ và độ phân giải phù hợp. Máy in có thể thay đổi dễ dàng cỡ chữ của phông outline mà không làm méo dạng như đối với phông bitmap (có thể chúng ta sẽ cần giảm trọng số của các cỡ phông chữ bé bằng một quá trình gọi là hinting, để khỏi bị mất những chi tiết tinh tế). Các phông outline thường có cài sẵn trong nhiều loại máy in laser hoặc được tải xuống từ đĩa. Hãng cung cấp hàng đầu các loại phông outline là Adobe System, Inc. Phông PostScript in ra rất đẹp và nếu có sử dụng ATM thì chúng hiển thị trên màn hình cũng rất đẹp. Phông outline thì không bao giờ được đặt tên theo tên thành phố. Ví dụ các phông outline: Avant Garde, Bookman, Helvetica, Times… Thực tế, phông outline cấu tạo gồm hai phần: Phần một là phông màn hình (screen font) mà thực tế là một sự diễn dịch hình ảnh của phông outline. Máy tính sử dụng phông màn hình để hiển thị loại trên màn hình . Phần hai của phông outline là phông máy in (printer font), là dữ liệu kỹ thuật số của máy in PostScript sử dụng để in ra giấy.3. Phông True TypeMột công nghệ tạo phông chữ kèm theo System 7 của hãng Apple Computer và Microsoft Windows 3.1 là họ đưa ra các phông chữ có thể thay đổi tỉ lệ cho màn hình và máy in của các hệ Macintosh và Window, do Apple Computer và Microsoft Coorporation hợp tác xây dựng. TrueType là một công nghệ phông tương đương với PostScirpt. TrueType không đòi hỏi phải có một trình tiện ích bổ sung hoặc một chương trình điều khiển bằng vi xử lý đắt tiền. Các phông chữ TrueType mà chúng ta nhìn thấy trên màn hình hoàn toàn giống như sẽ nhìn thấy khi in tài liệu đó ra. Hơn nữa các phông True Type đều có thể thay đổi ti lệ, có nghĩa là không có vấn đề gì khi chọn cỡ phông, chúng sẽ nhìn thấy chính xác cỡ đã chọn trên màn hình. Với True Type, chúng ta có thể in các tài liệu của mình trên các hệ máy tính khác hoặc máy in khác mà không phải định khuôn thức lại cho các phông đó. Ngay cả với các loại chương trình như WordPerfect 6. 0 for DOS hiện nay, chúng ta cũng có thể sử dụng các phông True Type được lưu trữ trong thư mục phụ System của Windows.Phông True Type là sự ứng dụng kỹ thuật của Apple. Nó nhìn mịn trên màn hình ở mọi kích cỡ và vẫn có thể in nếu thiếu bất kỳ biểu tượng phông máy in nào tại mọi nơi. Chúng ta cần dự trữ một biểu tượng độc lập, là nơi trữ tất cả những phông khác. Những biểu tượng của phông True Type có 3 chữ A.Phông True Type in ra trên mọi máy in thì sạch sẽ và dễ đọc, và nếu in bằng một máy in không phải PostScript thì chắc chắn chúng ta có thể thích chúng.Chúng ta cũng có thể sử dụng cả hai: Phông PostScript và phông True Type. Nhưng đặc biệt, hỗn hợp phông PostScript và phông True Type luôn luôn có tên tương tự nhau. Ví dụ: Không có phông Helvetica True Type và phông Helve PostScript được cài đặt trong cùng hệ thống phông.II. Các kiểu phông.1.Serif (chữ có chân)Vạch ngang mảnh ở đầu các nét chính của một ký tự. Đối với chữ in thường thì các phông serif dễ đọc hơn, tuy nhiên nhiều nhà thiết kế thích dùng các kiểu chữ sans serif cho chữ màn hình.2.Sans Serif (chữ không chân)Một kiểu chữ in không có chân (gạch ngang hoặc đường cong mảnh ở đầu các nét chính của ký tự). Helvetica và Arial là hai phông chữ không dễ đọc. Các kiểu chữ không chân được ưa dùng để làm chữ màn hình, nhưng khi dùng làm chữ in thường thì khó đọc hơn so với chữ có chân, như Times Roman chẳng hạn.3.SymbolLà loại phông chữ mà các ký tự có hình dáng những ký hiệu đặc biệt, những biểu tượng, thường dùng vào mục đích trang trí. 4.DisplayLà một loại phông chữ hiện đại, thường dùng vào các mục đích quảng cáo, trang trí.5.ScriptLà loại phông chữ mà các ký tự có hình dạng dựa theo các kiểu chữ viết tay có nhiều nét hoa mỹ, các nét thường nối liền nhau và dáng ký tữ thường hơi nghiêng.Phần 2: Sơ lược về lịch sử hình thành và phân loại phôngI.Phông PostScript Type 1Được phát triển từ hãng Adobe vào cuốt thập niên 80 bởi sự ra đời của ngôn ngữ PostScript. Năm 1990, Adobe công bố phần mềm quản lý phông Adobe Type Manager (ATM), cho phép hiển thị phông Type 1 trên máy tính Macintosh, một cách sắc nét ở bất kỳ kích cỡ nào.Phông Type 1 in được trên cả máy in PostScript và không PostScript.II.Phông PostScript Type 3Ra đời sau phông Type 1 cũng vào cuối thập niên 80 do các nhà sản xuất khác (không phải hãng Adobe) phát triển. Điều đặc biệt là phông Type 3 không có Hinting.* Hinting là một thuộc tính tích hợp bên trong một phông để giúp cho máy in biết được việc giữ tỉ lệ các đường in tạo thành một ký tự. Ví dụ đối với chữ M hoa. Hai nét gạch đứng có cùng chiều dài và chiều rộng. Nếu không có hinting, máy in có thể in một nét bằng 3 điểm in của máy và nét kia bằng 4 điểm in. Hinting sẽ đảm bảo sự bằng nhau về chiều dài và rộng của cả hai nét này.Dù cả phông Type 3 và Type 1 được viết dựa trên ngôn ngữ PostScript của hãng Adobe nhưng phông Type 3 khi xuất ra sẽ không được chính xác như Type 1 và nó có thể dẫn đến việc nhảy chữ và các thuộc tính Kerning – Tracking bị thay đổi và điều quan trọng là phông Type 3 không tương thích với ATM và các máy in không phải PostScript. Chính vì vậy mà người ta rất ít sử dụng phông Type 3.III.Phông True TypeĐược hãng Apple công bố chính thức vào năm 1991 và tích hợp vào hệ điều hành Mac OS của mình. Đến đầu măm 1992 thì Microsoft đưa phông True Type vào hệ điều hành Windows 3.1 và phông True Type trở thành tiêu chuẩn cho Windows đến ngày nay, nó vừa in được trên máy in PostScript và không PostScript. Chính vì vậy mà trình quản lý phông trong Control Panel của Windows chỉ có thể quản lý được phông True Type.Phần 3: Thành phần các loại FontNhư đã trình bày ở trên, người ta rất ít sử dụng phông Type 3, vì vậy phần này chỉ đề cập đến phông Type 1 và phông True Type.I Phông Type 1 : Loại phông chữ tương thích với PostScript, bao gồm cả công nghệ thay đổi ti lệ phông sở hữu riêng của Apple System, nó cải thiện độ rõ ràng của chữ khi độ phân giải thấp và co chữ nhỏ. Gồm 2 thành phần là phông màn hình và phông máy in1. Phông màn hình (Screen font) còn gọi là phông bitmap:Là những gì chúng nhìn thấy trên màn hình làm nhiệm vụ hiển thị phông trên màn hình. Nó là phần hình ảnh của phông outline mà máy tính đọc. Phông màn hình là hình ảnh, bởi chúng là đại diện cho những điểm trên màn hình. Mặc dù chính xác chúng chỉ là sự hiển thị để nhìn của phông outline sẽ in thực sự ra giấy, cần phải lắp đặt phông màn hình bitmap để sử dụng cho việc in ấn phông outline. Tuy nhiên cũng có một số phông bitmap được viết kèm với kích cỡ phông chẳng hạn phông FZhand10, đây thực sự chỉ là phông bitmap không có thành phần outline, chữ trên màn hình bị gai nhưng chúng ta vẫn có thể in ra máy in PostScript được (dĩ nhiên là cũng bị gai). Nói như vậy có nghĩa là phông bitmap thật ra không phải chỉ để hiển thị trên màn hình mà cũng có thể in được (với một số phông đặc biệt). Phông màn hình thường được hiển thị ở dạng biểu tượng trong một hộp nhỏ trên có chữ A. Chúng ta có thể double lick vào phông màn hình để xem một ví dụ của phông.2. Phông máy in (Printer font) còn gọi là phông outline:Là một phần của phông outline mà máy in PostScript đọc với mục đích in chữ lên trang giấy. Phông máy in có biểu tượng của riêng mình và mỗi biểu tượng của các hãng phông nhìn đều khác nhau. Nó gồm thuộc tính thu phóng kích thước chữ và chứa đựng thông tin về các đường cong Bézier tạo nên chữ sẽ được chuyển đến máy in PostScript có độ phân giải cao khi ta in ra. Những thông tin này cho phép phông chữ in ra sắc nét, trơn tru ở bất kỳ co chữ nào khi ta đặt trong các ứng dụng; máy in sẽ tự tính toán hình dạng, kích thước ký tự khi in sao cho tương ứng với co chữ được thiết đặt trong ứng dụng. Phông Type 1 được máy in in với độ phân giải cao nhất có thể có của máy do đặc tính không phụ thuộc vào độ phân giải.Các phông phải được lưu trữ ngay trong thư mục hệ thống (System folder) hoặc thư mục Extensions trong thư mục System folder và trong thư mục Fonts trong thư mục hệ thống trong hệ điều hành Mac OS 7.1 trở lên. Chú ý rằng, mặc dù một số phông đó không phải lúc nào cũng có thể download . Hầu hết các máy in laser có bộ ROM (Read Only Memory) có những phông thường trú. Thông tin outline cho những phông đó lưu trữ một cách lâu bền trong máy in hỗ trợ nên máy in có thể sử dụng chúng bất kỳ lúc nào. Những phông thường luôn có mặt như: Avant Garde, Bookman, Helvetica, New Century School Book, Palatino, Times, Symbol, Courier, Zapf, Chancery và Zapf Dingbats. Hầu như các phông outline khác được gọi là Downloadable font và chúng ta phải mua chúng từ các hãng phông.Phông máy in và phông màn hình được thể hiện rất rõ trên máy tính Macintosh. Nếu chúng ta chỉ có phông bitmap (hoặc khách hàng khi xuất phim chỉ sao chép phông bitmap) ta sẽ thấy phông bị gai, không trơn tru trên màn hình và khi in ra các máy in PostScript nó cũng bị gai hoặc có thể máy in báo lỗi thiếu phông mà không in được. Lúc này cần phải dùng chương trình tạo phông để tái tạo thêm thành phần phông máy in. Vì vậy khi cần sao chép phông Type 1 ta phải lưu ý sao chép đủ cả hai thành phần của một phông.Đối với máy PC, một phông Type 1 cũng gồm có hai thành phần : *.PFM và *.PFB. Khi ta sao chép phông cũng phải sao chép đủ cả hai thành phần này vì thành phần *.PFM là font metric dùng để nhận dạng phông khi nạp vào máy tính còn thành phần *.PFB là thành phần thật sự tạo nên phông chữ. Nếu chỉ có một thành phần *.PFM ta có thể nhìn thấy phông khi nạp vào ATM (chẳng hạn) nhưng máy sẽ báo không tìm thấy thành phần *.PFB kết quả là phông không sử dụng được. Còn nếu chỉ sao chép thành phần *.PFB thì máy sẽ không nhìn thấy được phông khi nạp.II. Phông True TypeĐơn giản hơn, chỉ gồm một thành phần duy nhất. Trên Mac chỉ có dạng một tập tin suitcase và trên PC, tập tin có dạng *.ttf.Phông True Type khi in ra máy in PostScript thường sẽ tự động được chuyển thành dạng PostScript. Tuy nhiên có một số máy in không chuyển phông đúng dẫn đến tình trạng chữ bị dính lại, toàn bộ các thuộc tính thiết lập trên ứng dụng bị thay đổi hoàn toàn nhất là ở một số phông True Type tiếng Việt. Trong trường hợp này ta cần sử dụng các chương trình tạo, chuyển đổi phông để chuyển đổi phông True Type bị lỗi sang dạng phông Type 1.Ghi chú: Một số trường hợp tài liệu sử dụng phông Type 1 nhưng khi in, máy in báo lỗi “font not found”, nếu ta không nạp phông Type 1 và thay bằng True Type máy sẽ in được. (Ví dụ: Ta thay Type 1 Bách Khoa bằng True Type Bách Khoa). Điều này xảy ra là do tên họ và tên PostScript của phông Type 1 không giống nhau. Ví dụ phông Helve ở dạng Normal có tên họ phông là Helve nhưng tên PostScript là Helve-Normal. Lúc đó ta cần đổi tên lại cho giống nhau. (Tên họ phông và tên PostScript được thay đổi khi dùng Fontographer để mở một phông).TríchLuân văn Tốt nghiệp - Khoa Công nghệ In - Trường ĐH. SPKT TP.HCM.SVTH: PHẠM THỊ NGỌC THUÝ - PHẠM THỊ TỐ LIỄU, GVHD: NGUYỄN MẠNH HUY



nt|Boomerang Co., LtdChỉnh sửa bởi khoalt vào 05-12-2005 01:53




View more latest threads same category:


Trả lời với trích dẫn


CHUYÊN MỤC ĐƯỢC TÀI TRỢ BỞI
Trả lời


Công cụ bài viết
Kiểu hiển thị

Quyền viết bài
You may not post new threads
You may not post replies
You may not post attachments
You may not edit your posts

vB code is Mở
Mặt cười đang Mở
[IMG] đang Mở
HTML đang Mở
Chuyển đến

SangNhuong.com


Múi giờ GMT +7. Hiện tại là 07:04 PM

SangNhuong.com xây dựng